DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ DANH THẮNG HỒ THÁC BÀ
Hồ Thác Bà là một viên ngọc quý của miền Tây Bắc nước ta. Năm 1961, công trình thuỷ điện Thác Bà bắt đầu xây dựng, đến năm 1971 mới hoàn thành, hồ Thác Bà có từ đây. Nó nằm trong lưu vực sông Chảy thuộc hai huyện Yên Bình và Lục Yên tỉnh Yên Bái.
Đảo trên Hồ Thác Bà
Là một trong ba hồ nước nhân tạo to lớn nhất của Việt Nam, rộng gần 20.000 ha, với trên 80 km chiều dài, chiều rộng từ 8-10 km, có chỗ sâu tới 45m. Hồ Thác Bà có tới 1.331 hòn đảo lớn nhỏ, xen kẽ những dãy núi đá vôi xanh thẫm, trong đó có khá nhiều đảo trồng cây ăn quả như bưởi, quýt, hồng,... Cảnh quan thiên nhiên vừa kỳ vĩ vừa thơ mộng.
1- Tên di tích: Hồ Thác Bà
2- Loại hình di tích: Di tích lịch sử và Danh thắng cấp Quốc gia
3. Quyết định công bố di tích:
Quyết định số 2410/QĐ-BVHTT ngày 27/9/1996 của Bộ Văn hóa – Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Hồ Thác Bà là di tích Lịch sử và Danh thắng cấp Quốc gia.
4. Địa điểm và đường tới di tích
Nằm trong lưu vực Sông Chảy, lại trong khu vực có lượng mưa lớn, lên tới 1.800 mm và địa hình thấp tạo ra một lòng hồ lớn thuộc địa bàn hai huyện Lục Yên và Yên Bình của tỉnh Yên Bái.
Hồ Thác Bà nằm ở phía Đông của thành phố Yên Bái, cách thành phố Yên Bái 13 km theo đường bộ Yên Bái - Hà Nội. Với kích thước lớn và kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam đã chia cắt huyện Yên Bình thành hai bên tả và hữu ngạn của Hồ. Riêng Quốc lộ 70 chạy dọc bên tả ngạn của hồ đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông đường thủy giữa vùng ven của 2 bên hồ.
5. Sơ lược lịch sử của di tích
Trên một địa bàn rộng lớn của tỉnh Yên Bái, thuộc địa giới hành chính hai huyện Lục Yên và Yên Bình, lại nằm trong khu vực địa hình của miền thượng du, cao thấp không đồng đều. Trong khu vực của lòng Hồ Thác Bà hiện nay vốn trước đã có nhiều hồ đầm to nhỏ khác nhau, chỉ sau khi chuyển dân đến địa bàn mới, đóng cửa đập Thác Bà, tạo thành một hồ lớn như hiện nay thì mới xuất hiện tên Hồ thủy điện Thác Bà hay Hồ Thác Bà. Như vậy, cái tên Hồ Thác Bà mới chỉ xuất hiện gần đây, vào cuối thập kỷ 60 - đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, sự kiện lịch sử gắn với di tích Hồ Thác Bà chính là việc chuyển dân cùng các thiết chế kinh tế - văn hoá - xã hội ra khỏi lòng Hồ Thác Bà tạo nên một hồ lớn phục vụ cho việc hoạt động của Nhà máy thủy điện Thác Bà, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước.
Như vậy, di tích Hồ Thác Bà là di tích do con người tạo ra kết hợp với thiên nhiên sẵn có. Hồ Thác Bà chỉ được xuất hiện khi có quyết định của Đảng và Nhà nước từ sau tháng 6 năm 1962 (sau Hội nghị TW Đảng lần thứ 7 khóa III) và yếu tố không kém phần quan trọng, giữ vị trí quyết định là ý chí quyết tâm, công sức lớn lao của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Yên Bái cùng với sự hỗ trợ đắc lực của TW và sự giúp đỡ nhiệt tình có hiệu quả của Nhà nước Liên Xô. Đây còn là kết quả của sự hợp tác, giúp đỡ của hai tỉnh Tuyên Quang và Vĩnh Phú đã chia sẻ những khó khăn và vui chung niềm vui to lớn của Đảng bộ và nhân dân Yên Bái khi ngày 05/10/1971 tổ máy số 1, Nhà máy Thủy điện Thác Bà chính thức phát điện, hòa vào lưới điện quốc gia.
Nhà máy Thủy điện Thác Bà
Với việc hoàn thành Hồ Thác Bà - hoàn thành công trình Nhà máy Thủy điện Thác Bà đã chinh phục Thác Bà hung dữ trên dòng Sông Chảy. Góp phần vào việc cung cấp năng lượng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ các nhu cầu quốc phòng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, đấu tranh thống nhất nước nhà và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Với đặc điểm là hồ nhân tạo, kết hợp sử dụng tự nhiên, Hồ Thác Bà là nơi mang trong mình sự kết tinh thành quả của bàn tay và khối óc con người trong quá trình cải biến giang sơn phục vụ cuộc sống con người, vừa mang trong mình những di tích, di chỉ lịch sử khảo cổ. Đồng thời Hồ Thác Bà trở thành một danh thắng đẹp, cải tạo khí hậu sinh thái môi trường, từng bước trở thành vùng tham quan du lịch có giá trị của đất nước. Trong lòng khu vực Hồ Thác Bà rộng lớn còn chứa nhiều di chỉ khảo cổ học gắn với quá trình cư trú của người Việt cổ như: Hang Hùm, Hang Khe Hoài, hang Chùa, …, các di chỉ này trước kia đã tìm thấy các công cụ cuội nhưng chưa rõ nét, cần phải tiếp tục nghiên cứu thêm.
Ngoài ra trong lưu vực Hồ Thác Bà do trải dài trên một địa bàn rộng lớn nên nó cũng chứa nhiều di tích lịch sử như Chùa Hang còn một số dấu vết thời Trần. Thành Vua Áo Đen cũng có dấu vết thời Trần tuy đã bị đổ nát từ lâu, thành Nhà Bầu (còn có tên gọi Việt Tĩnh Thành) ở sát bờ Sông Chảy cùng một hệ thống thành liên quan đến Vũ Văn Mật (trấn thủ Tuyên Hóa phù Lê diệt Mạc, được vua Lê Trang Tông phong hàm gia quốc công).
Như vậy, ở Hồ Thác Bà, lịch sử - xã hội - thiên nhiên hòa trộn vào nhau phong phú đa dạng, cả bề dày lịch sử và thành quả hiện đại đan xen vào nhau trên mảnh đất này.
Ngược dòng thời gian, chúng ta trở về hơn 40 năm trước, chứng kiến sự di chuyển vĩ đại của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái trong công cuộc cải biến giang sơn, xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Sau khi hoàn thành căn bản những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ Miền Bắc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa xã hội làm tiền đề cho công cuộc đấu tranh chống chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc, trước những nhiệm vụ nặng nề ấy, đòi hỏi miền Bắc phải tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, thành hậu phương vững mạnh cho Miền Nam và cả nước. Yêu cầu công nghiệp hóa được đặt lên hàng đầu. Muốn vậy phải có nguồn năng lượng dồi dào, phục vụ đáp ứng yên cầu của các ngành kinh tế.
Tháng 6/1962, Hội nghị lần thứ 7 - Ban Chấp hành TW khóa III đã họp bàn về phát triển công nghiệp. Vấn đề năng lượng trước hết là thủy điện được đặt lên hàng đầu. Sau thời gian khảo sát trên Sông Chảy, nhận thấy Thác Bà có đủ điều kiện thích hợp cho việc xây dựng công trình thủy điện lớn đầu tiên của cả nước. Đây là vinh dự lớn và cũng là nhiệm vụ nặng nề đối với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái. Trong điều kiện chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ, cơ sở vật chất kỹ thuật, tiềm lực của chúng ta còn có những khó khăn cùng một lúc phải di chuyển hàng chục vạn dân với tất cả những điều kiện sinh hoạt đi kèm. Cùng với những cơ quan, công sở, kho tàng của Nhà nước và hàng chục ngôi đền, miếu, nhà thờ của giáo dân cùng biết bao di hài cốt của tổ tiên gia đình mỗi người. Cái khó hơn cả chính là việc phải giải quyết vấn đề tư tưởng cho nhân dân và cán bộ các cấp, việc khai hoang lập ấp, ổn định cuộc sống cho nhân dân những vùng di chuyển đến lập nghiệp.
Đây thực sự là một cuộc cách mạng lớn trên lĩnh vực tư tưởng và tổ chức thực hiện, đòi hỏi biết bao công sức, trí tuệ, tiền của Nhà nước và tập thể nhân dân cùng làm.
Các cấp ủy Đảng ở Yên Bái và các huyện có dân di chuyển, dân đến khai hoàn đã tiến hành nhiều đợt sinh hoạt chính trị sôi động, nhận thức rõ tần quan trọng của việc di dân, khai hoàn ổn định cuộc sống, có biện pháp đồng bộ, chặt chẽ linh hoạt và cương quyết thấu tình đạt lý để đạt được mục đích đề ra. Tỉnh ủy Yên Bái và các huyện thành lập "Ban chuyển dân" có kế hoạch từng bước cụ thể chỉ đạo kịp thời rút kinh nghiệm bổ sung khắc phục ngay những thiếu sót. Tỉnh ủy và các cấp ủy địa phương tập trung huy động tất cả các ngành như: thủy lợi, giao thông vận tải, lâm nghiệp, lương thực, y tế, tài chính, văn hoá thông tin, … phục vụ công tác di dân. Trong quá trình này, tỉnh cũng được Đảng và Nhà nước và các tỉnh bạn quan tâm giúp đỡ hỗ trợ có hiệu quả.
Sau quá trình chuẩn bị chu đáo, giai đoạn 1 của cuộc di dân bắt đầu thực hiện thí điểm từ cuối năm 1962 đến đầu năm 1963. Hai xã thí điểm là Chính Tâm và Tân Thành thuộc huyện Yên Bình. Đến cuối năm 1963, đợt 1 di chuyển dân đã căn bản hoàn thành thắng lợi, nhân dân nhanh chóng ổn định cuộc sống mới. Tỉnh đã kịp thời rút kinh nghiệm và bổ sung để việc chuyển dân tiến hành mạnh mẽ đồng loạt.
Trên cơ sở kết quả công tác di chuyển dân cư và các mặt chuẩn bị khác đã tương đối thuận tiện. Ngày 19/8/1964 Bộ Kiến trúc và Bộ Thủy lợi đã làm lễ chính thức khởi công công trình thủy điện Thác Bà.
Không chỉ là một thắng cảnh hùng vĩ, hồ Thác Bà còn là một di tích lịch sử quan trọng. Tại đây vào năm 1285 đã diễn ra trận Thu Vật do Trần Nhật Duật chỉ huy đánh tan một đạo quân Nguyên - Mông. Ở vùng thượng hồ còn có một số nơi là cơ sở hoạt động của các cơ quan Trung ương thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Giữa hồ Thác Bà có động Mông Sơn là nơi Tỉnh ủy Yên Bái làm việc trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Tại khu vực hồ thuộc huyện Lục Yên có nhiều di tích lịch sử như đền Đại Cại, hang Ma mút, chùa São, núi Vua Áo Đen… Các nhà khảo cổ đã phát hiện tại đây những dấu vết của người Việt cổ.
Với đặc điểm là hồ nhân tạo, kết hợp sử dụng tự nhiên, Hồ Thác Bà là nơi mang trong mình sự kết tinh thành quả của bàn tay và khối óc con người trong quá trình cải biến giang sơn phục vụ cuộc sống con người, vừa mang trong mình những di tích, di chỉ lịch sử khảo cổ. Đồng thời Hồ Thác Bà trở thành một danh thắng đẹp, cải tạo khí hậu sinh thái môi trường, từng bước trở thành vùng tham quan du lịch có giá trị của đất nước. Đến Yên Bái, nếu không đi thăm hồ Thác Bà thì cũng coi như du khách chưa biết Yên Bái. Bởi, không phải đương nhiên mà hồ Thác Bà, hồ nhân tạo lớn nhất Việt Nam được ví là "Hạ Long trên núi". Đã được Bộ Văn hóa – Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quyết định công nhận Hồ Thác Bà là di tích lịch sử và Danh thắng cấp Quốc gia.
Thanh Hùng- Đức Huân- Phòng VH&TT